Kết quả khai quật nghiên cứu di tích cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) năm 2021 (Phần 1)
1. Đôi nét
về di tích Cố đô Hoa Lư
Khu di
tích Quốc gia đặc biệt Cố đô Hoa Lư là nơi lưu giữ những vết tích cũ của Kinh
đô Hoa Lư của Nhà nước Đại Cồ Việt ở thế kỷ X. Sử cũ ghi “Vua (Đinh Tiên Hoàng) lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời kinh
ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành, đào hào, xây cung điện, đặt
triều nghi”. Đến thời Tiền Lê, vua Lê
Đại Hành “Giáp Thân, năm thứ 5 (984)…
dựng nhiều cung điện: làm điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân, cột điện dát
vàng bạc làm nơi coi chầu; bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Tử Hoa,
bên trái là điện Bồng Lai, bên phải là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng
điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ; bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long
Lộc, lợp bằng ngói bạc” và “Nhâm
Thìn… (992)… Mùa xuân, tháng giêng, vua ngự điện Càn Nguyên xem đèn” (Đại Việt sử ký toàn thư 1993: 221-222). Trải qua hơn ngàn năm dâu bể, dấu tích thành cũ Hoa Lư dù không còn hiện
hữu nhưng các kết quả thăm dò, khai quật nghiên cứu khảo cổ từ năm 1969 đến
nay, đặc biệt kết quả các đợt khai quật trong năm
2021 vừa qua ở Cố đô Hoa Lư đã xác định một kinh thành Hoa Lư có
quy mô lớn với nhiều công trình kiến trúc được xây dựng với mật độ dày đặc ở
bên trong.
Năm
2021, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình đã phối hợp với Viện Khảo cổ học
thực hiện hai đợt khai quật với tổng diện tích 900m2. Đợt khai quật
đầu tiến hành vào tháng 3-4/2021 đã mở 5 hố khai quật và 3 hố thăm dò, tổng
diện tích 300m2, kết quả
đã làm xuất lộ các lớp kiến trúc thời Đại La và thời Đinh - Tiền Lê nằm chồng
xếp lên nhau ở vị
trí phía nam Đền Lê (hố H1); nền kiến trúc ở phía nam Đền Đinh (hố
H4);
và lớp nền móng kiến trúc thời Đại La ở cánh đồng Nội Trong (hố H5). Sau đó, đợt khai quật vào
tháng 9-12/2021 tiếp tục nghiên cứu làm rõ khu vực phân bố kiến trúc ở cánh
đồng phía nam Đền Lê với diện tích 600m2, kết quả đã xác định và
phân tách ba lớp kiến trúc nền móng cung điện thuộc hai thời kỳ nhà Đinh và
Tiền Lê một cách rõ ràng.
2. Các vị trí khai quật khảo cổ: địa tầng và di
tích
2.1. Kết quả khai quật tại cánh đồng phía nam Đền Lê
Khu
vực khai quật ở cánh đồng phía nam Đền thờ Vua Lê có tọa độ 20°17'08.5"N - 105°54'21.7"E,
hướng bắc. Mặt hố nửa phía tây là ruộng lúa, nửa phía đông là sân đấu vật, độ
cao dao động từ +133cm đến +179cm so với mực nước biển hiện đại (Mực nước biển
hiện đại được sử dụng làm Cos0 cho toàn bộ các di tích xuất lộ). Sát cạnh phía
bắc khu vực khai quật là hố khai quật H2 do Viện Khảo cổ học thực
hiện năm 1998.
Địa
tầng hố khai quật có độ dày trên 200cm, ngay sau khi bóc lớp đất mặt dày khoảng
30cm, trong hố đào đã xuất lộ ba lớp kiến trúc thuộc
các giai đoạn lịch sử thời
Đại La, thời Đinh - Tiền Lê nằm chồng xếp lên nhau.
Lớp
kiến trúc sớm nhất
gồm 02 nền kiến
trúc cung điện, đường đi và sân ngoài, có niên đại thuộc về giai đoạn khởi đầu
thời Đinh. Hai nền kiến trúc cung điện có cấu trúc là nền đất đắp cao độ xuất
lộ +100cm, bên dưới được lót các lớp lau sậy và đóng một số cọc gỗ nhằm chống lún
sụt, cạnh ngoài của các nền điện được gia cố bằng các hàng cọc kè cừ chống sạt
lở. Trong phạm vi nền kiến trúc cũng thấy dấu hiệu của hai khu vực gia cố chân
cột; Đường đi giữa hai cung điện có cao độ xuất lộ từ +0,64m đến +0,41m, độ
rộng lòng đường từ 2,5-3m, Cấu tạo của đường đi là những lớp đầm đá ong non
mỏng tạo cho mặt đường cứng chắc. Sân ngoài có cao độ thấp hơn hẳn các nền kiến
trúc với cao độ xuất lộ chỉ xấp xỉ mực nước biển cho đến độ cao khoảng +30cm
nhưng lại được xử lý rất kỹ và chắc chắn với các lớp đắp bằng đá ong non,
mỗi lớp dày trung
bình 10cm, từng
lớp được đầm rất rắn chắc,
lớp đá ong có
màu nâu đen do nằm lâu ngày dưới lớp đất bùn nhưng trước kia có thể nó có màu
trắng đục ngả vàng hoặc màu vàng đục. Phía dưới nền là một lớp gia cố
bằng các loại cành cây, thanh gỗ rải trực tiếp lên lớp đất bùn sinh thổ màu nâu
đen, dẻo quánh và mịn. Cũng trong lớp nền sân này còn thấy hai hàng
cọc được đóng chạy dài theo hướng đông - tây có tác dụng kè chống sụt lún tạo thành bờ thành của một
con đường đi từ sân trên xuống một khu vực hồ, ao trũng thấp.
Lớp
kiến trúc thứ hai nằm ở cao độ từ +56 đến +96cm là một cạnh của công trình kiến
trúc thuộc rìa phía tây cung điện có độ dài gần 30m, gồm
nền, bó nền, thềm phía tây kiến trúc và một đoạn tường trang trí không gian kiến
trúc. Nền kiến trúc là một lớp chạt gồm sạn sỏi đá
ong và sét đầm chặt, màu nâu thẫm, một số chỗ có dấu hiệu nền bị lún trong khi
sử dụng và được bồi đắp thêm. Phía trong nền có một số hố chôn cột, trong đó có
2 hố còn dấu tích cột gỗ, cho phép xác định kiến trúc này sử dụng cột âm, tức
chôn cột gỗ âm dưới nền thay vì sử dụng chân tảng như các giai đoạn sau. Bó nền hướng bắc lệch đông
200, có cao độ từ +61 đến +96cm, là hai hàng gạch xếp nghiêng được
tận dụng từ các loại gạch bìa thời Bắc thuộc, hàng trong xếp hình răng cưa,
hàng ngoài xếp bằng. Thềm phía tây của nền rải lớp chạt tương tự nền kiến trúc
bên trong nhưng có cao độ xuất lộ thấp hơn từ 10-15cm, bắt đầu từ +46 đến
+88cm. Trên thềm kiến trúc xuất lộ một số đoạn tường gạch đã bị phá khi kiến
trúc còn đang được sử dụng, các đoạn tường này tạo những không gian cảnh quan
đối xứng có lẽ có tác dụng trang trí cho kiến trúc ở đầu hồi phía tây của cung
điện. Một số đoạn tường còn lại, chỗ cao nhất còn 12 hàng gạch,
được xếp từ những viên gạch tận dụng lại gạch thời Đại La, trong kẽ tường có chèn một
số mảnh sảnh thế kỷ 10, điểm xuất lộ cao nhất của đoạn tường +102cm, chân tường có cao
độ +44cm, hiện chưa rõ công năng sử dụng. Dựa vào những mảnh sành kê
chèn trong kiến trúc, có thể nhận định đây là cũng là nền kiến trúc cung điện
thời Đinh ở thế kỷ X và xuất hiện khi nhà Đinh có nhu cầu thay đổi chức năng
cũng như quy mô của một số công trình kiến trúc cung điện ở vị trí này.
Giữa lớp kiến trúc thứ nhất
và thứ hai có một lớp bùn màu đen nhạt, thuần, mịn dày từ 30-50cm ngăn cách,
cho biết khoảng cách thời gian xây dựng giữa hai lớp này có một sự gián đoạn
khá dài hoặc sau khi xây dựng lại công trình kiến trúc của giai đoạn hai thì
một số khu vực ở giai đoạn thứ nhất bị bỏ hoang hóa không sử dụng dẫn đến bị từ
nhiên xâm thực trở lại.
Hình 1: Sơ đồ các hố khai quật ở Cố đô Hoa Lư năm 2021
Hình 2: Quy hoạch Kinh đô Hoa Lư thời Đinh - Tiền Lê
Hình 3. Di tích kiến trúc
ở khu vực cánh đồng Nội Trong
Lớp kiến trúc thứ ba thuộc
về thời Tiền Lê xuất lộ trên toàn bộ bề mặt khu vực khai quật rộng 700m2
với các dạng hình: hai cấp nền sân kiến trúc lát gạch, rãnh thu nước, sân đắp
bằng đất nện và móng bè bằng gỗ xuất lộ ở cao độ từ +87 đến +124cm. Nền sân
kiến trúc xuất lộ ở cao độ từ +105 đến +124cm, được xây dựng bài bản với một
lớp chạt sạn sỏi đá ong đầm chặt trên toàn bộ mặt sân, bên trên lớp đầm bằng
sạn sỏi đá ong là một lớp gạch lát nền sân, đa số các viên gạch hình vuông mặt
có trang trí hình bông sen hoặc chim phượng. Bề mặt sân gạch đã bị bóc dỡ toàn
bộ các viên gạch lát nền, chỉ còn lại một vài cụm gạch bị bóc còn sót lại và
một số dấu tích của viên gạch in trên nền đất; Rãnh thu nước xuất lộ trong khu
vực khai quật có hình thước thợ, kỹ thuật xếp gạch
hình chữ V, gạch tận dụng từ loại gạch bìa màu xám trước thế kỷ X (một vài viên
có chữ Giang Tây Quân) và gạch thời Đinh - Tiền Lê (gồm gạch lát nền trang trí
hoa sen và gạch bìa có viên còn nguyên chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên),
đáy rãnh là lớp chạt đầm chặt tương tự nền kiến trúc: Rãnh số 1 chạy theo hướng
bắc nam lệch tây 200, độ dài xuất lộ trong hố
25m, cao độ mặt rãnh từ +106 đến +125cm, đáy rãnh từ +106 đến +118cm; Rãnh số 2
có hướng đông tây, bắt vuông góc với rãnh số 1 ở đầu phía bắc khu vực khai
quật, rãnh cao ở phía đông và thấp ở phía tây cho biết nền cao còn đang diễn
tiến về phía đông hố đào, cao độ xuất lộ mặt rãnh từ +87 đến +111cm, đáy rãnh
từ +78 đến +97cm. Phía bắc của rãnh số 2 có một số viên gạch lát nền kiến trúc
(còn tiếp tục ăn về vách bắc hố đào, nơi đã xuất lộ nền kiến trúc ở hố khai
quật H2 năm 1998); Phía tây của sân gạch
là lớp sân xuất lộ ở cao độ +83cm, được đắp bằng đất sét dày trung bình 30cm trong có chứa ít mảnh
gạch, ngói, sành sứ… thế kỷ X, dưới lớp đất này được lót một lớp cây bụi chống
lầy thụt. Ở giữa sân còn thấy một lớp móng bè xuất lộ ở cao độ
+72cm, là những thanh gỗ xếp ngang dọc, kích thước 1,3x1,3m. Kết quả khai quật
ghi nhận nền sân gạch ở khu vực này có cao độ cao nhất trong toàn bộ khu vực nội đô Hoa Lư,
lại phân bố ở vị trí trung tâm khu di tích, chính vì vậy chúng tôi nhận định
rằng đây chính là sân rồng của chính điện Bách Bảo Thiên Tuế được sử sách ghi
chép năm 984 hoặc Càn Nguyên khi được vua Lê Đại Hành đổi tên năm 992.
2.2. Kết quả
khai quật khu
vực phía nam Đền Đinh
Tại vị trí sát cạnh phía nam Đền Đinh chúng tôi mở một
hố khai quật diện tích 20m2 (10x2m), ký hiệu H4,
tọa độ 20°17'02.8"N -
105°54'19.7"E, hướng đông lệch nam 100, mặt hố có độ cao +172cm so với mực nước
biển. Ở bên dưới lớp đất mặt, cao độ +122cm, xuất lộ một nền kiến trúc được đắp bằng vữa hồ dày trên 10cm (gồm
sạn sỏi đá ong, vôi...) xen lẫn trong đó là những viên gạch có niên đại từ
thế kỷ X
về trước.
2.3. Kết quả
khai quật ở cánh
đồng Nội Trong
Tại vị trí cánh đồng Nội Trong, cách hai đền Đinh - Lê 600m về phía Tây Nam, một hố
khai quật diện tích 120m2
(30x4m) được mở, ký hiệu H5, tọa độ 20°16'49.9"N - 105°54'15.7"E,
hướng hố đông lệch nam 200. Ngoài ra, đoàn công tác còn dọn dẹp
mặt bằng khu vực rộng 40m2 (10x4m) ở phía tây hố đào để làm rõ một khu vực nền kiến trúc lộ
thiên. Như vậy, tổng diện tích
nghiên cứu ở khu vực này là 160m2. Tại khu vực mở hố, việc thi công
đào múc mặt ruộng làm công trình phục vụ du lịch đã làm lộ ra nền móng kiến
trúc nằm ở cao độ xấp xỉ với mực nước biển hiện đại.
Nền kiến trúc xuất lộ từ cao độ +52 đến
-2cm trở xuống, dùng cát sỏi laterite màu
nâu sẫm trộn cùng đất và vỏ nhuyễn thể, trên bề mặt rải đầm thêm các mảnh gạch
ngói vỡ vụn đắp trải rộng thành nền kiến trúc cung
điện rất cứng chắc. Lớp gia cố nền có những vùng khá dày từ 30-35cm.
Phần lớn trên bề mặt vẫn còn dấu răng gầu múc cho thấy nền đã bị đào xới mất đi
ít nhiều. Trong khu vực hố đào, nền có xu hướng dốc nghiêng từ tây sang đông.
Dưới nền là sinh thổ sét bùn nâu đen, dẻo quánh, cứng, mịn.
Trong phạm vi khai quật phát
lộ 3 cụm cọc và gia cố cọc gỗ nằm gần thẳng hàng theo hướng đông tây, là cột
nhà và cột móng kè của kiến trúc nhà cửa, cung điện, có cột đường kính trên
30cm, hầu hết các cọc đều bị gãy mục do tự nhiên và tác động của con người hiện
đại. Cụm thứ nhất nằm ở giữa hố gồm 22 cọc chia thành 2 hàng chôn sâu vào sinh
thồ, hướng đông tây, trong đó 7 cọc đường kính trung bình 30cm nằm ở phía bắc,
số còn lại có đường kính từ 14-20cm được chôn ở phía nam có tác dụng kè đỡ hàng
cọc ở phía bắc. Cụm thứ hai gồm 7 cọc được tạo thành cụm gần tròn nằm ở phía
tây và cách cọc ngoài cùng của cụm 1 là 1,8m. Cụm thứ ba gồm 12 cọc nằm ở đầu
phía tây hố đào, phân bố thành hai hàng tương tự cụm thứ nhất, trong đó hố mở
nghiên cứu kỹ thuật đóng cọc ở đây ghi nhận các cọc chính có đường kính 30cm
trở lên được đóng âm vào sinh thổ đến độ sâu -232cm (sâu 2,5m tính từ mặt nền
kiến trúc), các cọc kè xung quanh được đóng đến độ sâu -139cm (sâu 1,8m từ mặt
nền kiến trúc). Ngoài ra, ở phía ngoài hố đào về hướng tây còn thấy xuất lộ đầu
cọc của một cụm cọc gỗ khác cũng có hướng phân bố thẳng hàng với ba cụm cọc đã
phát lộ trong hố.
Di vật gồm các loại gạch, ngói, gốm sứ,
sành… gồm nhiều niên đại kéo dài từ thời Bắc thuộc đến thời Đinh - Tiền Lê. Trong đó, hiện vật giai
đoạn thế kỷ VII-IX có số lượng nhiều nhất.
2.4. Kết quả khai quật ở các khu vực khác
Đợt công tác còn
thực hiện một số hố khai quật ở các vị trí khác nhau thuộc phạm vi khu di tích
Cố đô Hoa Lư như ở cánh đồng Lũy Dung giữa Đền Đinh và Đền Lê, tọa
độ 20°17'07.5"N - 105°54'18.1"E; ở cánh đồng Cây Khế phía sau Đền Lê, tọa độ
20°17'11.0"N - 105°54'16.2"E;
thăm dò 3 hố ở khu vực phía trước Ngọc Nữ Lâu. Tại các địa đểm trên đều phát
hiện dấu tích của nền sân đất đắp thuộc giai đoạn thế kỷ X.
(Còn nữa)